赛派号

全球十大燃气热水器品牌排行榜 (PDF) Xử lý lưu huỳnh trong khí thải

Nghiên Cứu Quá Trình Ôzôn Hóa Xử Lý Chất Nhuộm Màu Methyl Da Cam Trong Nước Thải Dệt NhuộmK62.FTU Nguyễn Thùy Dương

KỶ YẾU HỘI THẢO CAREES 2019 NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG

Nước thải dệt nhuộm đang là vấn đề đáng quan tâm bởi chứa nhiều các chất nhuộm màu đặc biệt là chất màu azo khó phân hủy sinh học. Bên cạnh các công nghệ nghiên cứu truyền thống, công nghệ oxy hóa tiên tiến ngày càng chứng tỏ là công nghệ hữu hiệu trong xử lý các chất hữu cơ trong đó công nghệ ôzôn đang được đánh giá cao bởi tính oxy hóa mạnh của ôzôn và gốc oxy hóa OH° linh động sinh ra trong quá trình. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của quá trình ôzôn hóa để xử lý chất nhuộm màu methyl da cam. Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy, sử dụng công nghệ ôzôn hóa là rất hiệu quả trong việc xử lý chất màu methyl da cam. Với các nồng độ ôzôn ban đầu chỉ từ 5.0 -7.4 ppm tại các pH ban đầu khác nhau từ 3 tới 10, quá trình ôzôn hóa đã xử lý hiệu quả chất màu methyl da cam với nồng độ ban đầu 69±1 ppm với hiệu suất đạt từ 71 đến 88% trong thời gian 60 phút. Từ khóa: nước thải dệt nhuộm, chất nhuộm màu, ôzôn hóa, methyl da cam. Cùng với sự phát triển kinh tế, ngành dệt nhuộm đã và đang trở thành ngành kinh tế mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành nghề dệt nhuộm, trong quy trình sản xuất có các loại hóa chất đặc biệt là các chất nhuộm màu được sử dụng với hàm lượng cao trong các khâu tẩy, nhuộm, đánh bóng…Kết quả thống kê cho thấy ngành dệt nhuộm đã sử dụng tới hơn 8000 các loại chất tạo màu khác nhau và hơn 6900 các chất phụ gia được biết đến dẫn đến nước thải bị ô nhiễm nặng bởi nhiều các hợp chất vô vơ và hữu cơ [1]. Tiếp theo đó, các tác giả Robinson T et al, 2001, và Ogugbue CJ et al, 2011 và Farah et al, 2013 đã cho rằng công nghiệp dệt nhuộm được dự đoán rằng đã sử dụng tới hơn 10.000 các chất màu khác nhau và trên 7x10 5 tấn các chất màu tổng hợp được sử dụng sản xuất trên toàn thế giới hàng năm [2]. Các chất ô nhiễm điển hình là các chất nhuốm màu mạnh, là các chất hữu cơ hoặc các muối vô cơ. Vì vậy, nước thải ngành công nghiệp dệt nhuộm rất độc hại, độ màu cao, pH cao, hàm lượng BOD, COD rất cao và đặc biệt nước thải vẫn còn chứa một hàm lượng lớn các chất nhuộm màu mà đa số là các hợp chất hữu cơ khó phân hủy sinh học. Do đó, việc sử dụng các phương pháp truyền thống như các phương pháp hóa lý, quá trình đông tụ, keo tụ, hấp thụ và công nghệ màng… được cho là hạn chế khi nghiên cứu và ứng dụng xử lý nước thải chứa chất màu độc hại của ngành công nghiệp dệt nhuộm. Điển hình khi nước thải dệt nhuộm chứa các chất nhuộm màu là các chất có cấu trúc mạch vòng, các chất vòng thơm hoặc các polymer tổng hợp…Để giải quyết nhu cầu nguồn nước thải ngày càng nhiều của ngành công nghiệp dệt nhuộm, công nghệ oxy hóa tiên tiến đã và đang được nghiên cứu và ứng dụng bởi các tiềm năng ôxy hóa mạnh của chúng bởi các gốc linh động đặc biệt là sự sinh ra gốc linh động OH° trong quá trình phản ứng. Một trong những công nghệ ôxy hóa tiên tiến phải kể đến công nghệ ozôn hóa bởi khả năng oxy hóa mạnh của ôzôn và sự phân hủy ôzôn trong quá trình [3]. Sử dụng quá trình ôzôn đối với việc xử lý nước thải dệt nhuộm được đánh giá là rất tiềm năng bởi (1) quá trình không tạo ra bùn thải; (2) nguy hiểm đối với con người giảm ở mức tối thiểu; (3) quá trình màu hóa và xử lý chất màu xảy ra đồng thời; (4) việc vận hành quá trình ôzôn hóa dễ dàng; (5) tất cả phần ôzôn bị dự thừa có thể phân hủy dễ dàng thành oxy và nước, đồng thời (6) các sản phẩm

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightPhát thải khí nhà kính trong tiểu lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi tại tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010–2018Phạm Thanh Long

Vietnam Journal of Hydrometeorology, 2020

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightBổ sung than sinh học trấu và tre làm giảm phát thải khí CH4 của đất ngập nước trong điều kiện phòng thí nghiệmMinh Hồ

Can Tho University Journal of Science, 2021

Bổ sung than sinh học vào đất được xem là một biện pháp trong cải tạo đất và giảm phát thải khí CH­4 từ ruộng lúa. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả giảm phát thải khí methane (CH4) của đất ngập nước khi bổ sung than sinh học trấu (RB) và tre (BB) trong điều kiện phòng thí nghiệm. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 7 nghiệm thức gồm hai loại than sinh học là trấu và tre với 3 tỷ lệ than sinh học được bổ sung là 0,1, 0,2 và 0,5% (tính theo trọng lượng than sinh học trên trọng lượng đất) và nghiệm thức đối chứng (không có than sinh học). Kết quả đo đạc cho thấy trong điều kiện đất ngập nước, cường độ phát thải khí CH4 mạnh nhất từ 7-10 ngày sau khi bắt đầu thí nghiệm (với mức phát thải tương ứng 58,2 - 87,9 µg/kg/ngày). Than sinh học được bổ sung vào đất trong điều kiện ngập nước làm giảm phát thải CH4 từ 21,9 đến 49,6% và 27,5 – 42,5% tương ứng với tỷ lệ bổ sung than từ 0,2 đến 0,5% (lần lượt cho than trấu và than tre). Than sinh học trấu bổ sung ở tỷ lệ 0...

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightSulfate/sulfide removal from wastewater by lab-scale microbial fuel cellVy Nay Ánh

Vietnam Journal of Biotechnology

Sulfate/sulfide-containing wastewater is a widespread environmental contaminant resulting from human activities. These pollutants he negative impact on natural ecosystems and human beings. Biological sulfate/sulfide removal can be achieved by reducing sulfate to sulfide with sulfate-reducing bacteria and then oxidizing sulfide to elemental sulfur (So) with sulfide oxidizing bacteria. In sulfate/sulfide contaminant wastewater lacking electron acceptor for sulfide oxidization, excess sulfide will be produced and accumulated in the treatment system. Therefore, microbial fuel cells (MFCs) he been shown to be a promising technique for the removal of sulfate/sulfide pollutants in wastewater. In this study, a lab-scale MFCs has been developed based on the activity of sulfate-reducing bacterium Desulfovibrio. sp. The results showed that sulfate and sulfide removal efficiencies of 74 - 82% (78 ± 2,5%) and 80.8 - 89.1% (~85,6 ± 3,1%) were achieved, respectively, from the 5th day to the 14...

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightSử dụng đất ngập nước xử lí nước thải sinh hoạt và tạo cảnh quanLê Hoàng Việt

Tạp chí Khoa học, 2019

Nghiên cứu thực hiện trên khu đất ngập nước trồng Bồn bồn và Ngải hoa xử lí nước thải sinh hoạt. Ở thời gian lưu nước (HRT) 5 ngày, nước thải sau khi xử lí đạt quy chuẩn xả thải đối với các chỉ tiêu SS, BOD5, N-NO3-, P-PO43-, DO và TKN; riêng N-NH4+ và tổng Coliforms đạt QCVN 14:2008/BTNMT cột B. Ở HRT 4 ngày chỉ có chỉ tiêu N-NH4+ vượt ngưỡng xả thải của QCVN 14:2008/BTNMT cột B. Cần tiếp tục nghiên cứu xử lí nguồn nước thải đã qua khu đất ngập nước này hoặc tận dụng nước thải để tưới cây trồng giảm bớt nồng độ đạm thải ra môi trường.

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightƯớc tính lượng khí phát thải do đốt rơm rạ trên đồng ruộng tại khu vực Đồng bằng sông Cửu LongHuỳnh Thy

Vietnam Journal of Hydrometeorology, 2022

Tóm tắt: Trồng lúa là một trong những hoạt động sản xuất chính của người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Sau khi thu hoạch, rơm rạ được xử lý bằng nhiều cách khác nhau nhưng chủ yếu là đốt, việc này vừa gây lãng phí nguồn tài nguyên vừa phát thải ra môi trường một lượng lớn khí độc hại. Nghiên cứu sử dụng phần mềm ALU (Agriculture and Land Use National Greenhouse Gas Inventory) để ước tính lượng phát thải khí do hoạt động đốt rơm rạ này gây ra. Kết quả cho thấy tại ĐBSCL năm 2012, hoạt động đốt rơm rạ phát thải 1598,8 nghìn tấn khí CO, kế đến là khí CH4 khoảng 164,9 nghìn tấn, còn lại khí NOx là 39,2 nghìn tấn và khí N2O là 1,2 nghìn tấn. Đến năm 2020, với sự thay đổi về sản lượng lúa và tỷ lệ đốt rơm rạ giảm nên lượng khí thải ước tính giảm xuống còn 1123,6 nghìn tấn khí CO, khí CH4 cũng giảm xuống còn 115,9 nghìn tấn, khí NOx còn 27,5 nghìn tấn và N2O còn 0,8 nghìn tấn. Điều này cho thấy xu hướng tích cực trong việc giảm phát thải khí từ hoạt động đốt rơm rạ tại ĐBSCL tuy lượng khí thải ra hiện vẫn còn tương đối lớn. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm dữ liệu hỗ trợ kiểm kê phát thải cũng như sử dụng trong quản lý chất lượng môi trường không khí ở Việt Nam. Từ khóa: Đốt rơm rạ; Phát thải khí; Đồng bằng sông Cửu Long.

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightTổng Hợp Đồng (I) Oxit Từ Rác Thải Điện TửHồng Hoà

TNU Journal of Science and Technology

Trong bài báo này, đồng (I) oxit (Cu2O) được tổng hợp thành công từ dung dịch đồng (II) sunfat (CuSO4), glucozơ, natri hidroxit (NaOH). Dung dịch CuSO4 được tách từ rác thải điện tử theo phương pháp hỏa luyện kết hợp với thủy luyện. Vật liệu này được nghiên cứu tổng hợp bằng các phương pháp thực hiện và ảnh hưởng của pH cho thấy cho từ từ dung dịch CuSO4 vào dung dịch gồm NaOH và glucozơ có pH = 12 thu được Cu2O có cấu trúc nano. Qua việc phân tích cấu trúc bằng phương pháp XRD và SEM cho thấy tổng hợp vật liệu Cu2O có kích thước tinh thể tính theo phương pháp XRD là 8,75 nm, hằng số mạng bằng 0,43 nm, độ biến dạng bằng 0,004; mật độ lệch vị trí bằng 0,013. Các hạt Cu2O tạo thành tương đối đồng đều, kích thước hạt khoảng 50 nm. Vật liệu Cu2O có cấu trúc nano tổng hợp được vừa giải quyết vấn đề ô nhiễm rác thải điện tử, vừa tổng hợp được vật liệu nano có ứng dụng cao.

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightNghiên cứu sử dụng bùn thải đô thị đã xử lý chế tạo gốm tường theo phương pháp dẻoNguyễn Linh

Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (KHCNXD) - ĐHXDHN, 2021

Gạch nung là vật liệu xây dựng truyền thống và nhu cầu sử dụng để xây rất lớn. Nguyên liệu sản xuất gạch chủ yếu là đất sét dẻo, đất nông nghiệp, nguồn này đang dần cạn kiệt. Chúng được sản xuất theo phương pháp tạo hình dẻo, đây phương pháp đơn giản và phổ biến. Trong khi đó bùn thải đô thị hàng năm rất lớn, gây ô nhiễm môi trường. Đã có nhiều nghiên cứu xử lý, sử dụng bùn thải nhưng còn hạn chế. Nhóm nhiên cứu sử dụng bùn thải nạo vét đã xử lý làm nguyên liệu để sản xuất gốm tường. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoàn toàn có thể sử dụng bùn thải, bùn thải đã xử lý để thay thế đất sét từ 10÷30% để chế tạo được gạch xây đạt theo TCVN 1451:1998: cường độ chịu nén Rn ≥ 75 kG/cm2, độ hút nước Hp đạt 11÷16%, âm thanh tốt,…

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightNghiên cứu chế biến dung dịch cao năng lượng nuôi ăn cho bệnh nhân qua ống thông dạ dày tại Bệnh viên Trung ương Quân đội 108Nguyen Phu

Tạp chí Y Dược Lâm sàng 108, 2022

Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 Tóm tắt  Mục tiêu: Nghiên cứu chế biến dung dịch cao năng lượng nuôi ăn bệnh nhân qua ống thông dạ dày và đánh giá các tiêu chuẩn dựa trên các tiêu chí: Giá trị dinh dưỡng, hóa lý, vi sinh vật của dung dịch cao năng lượng so với sản phẩm Nutrison. Đối tượng và phương pháp: Phân tích, mô tả trên các mẫu thực phẩm có sẵn theo mùa, các thành phần của công thức dung dịch được tính theo bảng tính Excel dựa trên bảng thành phần hóa học thực phẩm Việt Nam năm 2007, kiểm nghiệm dung dịch thực tế về các chất dinh dưỡng tại Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Kết quả: Công thức dung dịch nuôi ăn cao năng lượng tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108, bao gồm: Gạo tẻ 120g, đậu xanh 50g, trứng gà 100g, rau xanh 100g, bột dinh dưỡng 50g, dầu ăn 6g, sữa bột 76g với tổng mức năng lượng đạt được 1020 Kcal, với đậm độ năng lượng là 1,02kcal/ml dung dịch, tỷ lệ các chất sinh năng lượng là P:L:G = 18:29:53. Kết luận: Dung dịch cao năng lượng nuôi ăn qua ống thông đảm bảo yêu cầu về mức năng lượng, giá trị dinh dưỡng, chỉ số hóa lý và vi sinh vật, an toàn vệ sinh thực phẩm so với dung dịch Nutrison, khuyến nghị Viện Dinh dưỡng và Bộ Y tế. Từ khóa: Dung dịch cao năng lượng, nuôi ăn qua ống thông dạ dày.

downloadDownload free PDFView PDFchevron_rightNghiên cứu sử dụng phế thải xây dựng và thải phẩm công nghiệp chế tạo gạch bê tông rỗngLâm Phạm Nhật

Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (KHCNXD) - ĐHXD, 2020

Phế thải từ phá dỡ các công trình ở Việt Nam hiện nay chưa được quản lý chặt chẽ và gây ra nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường, lãng phí tài nguyên có thể tái tạo. Bên cạnh đó, một lượng không nhỏ thải phẩm của các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng như bê tông khí chưng áp (AAC) không được tái sử dụng mà đang chôn lấp hoặc đổ thải. Việc nghiên cứu tái sử dụng phế thải xây dựng và thải phẩm công nghiệp là rất cần thiết và có ý nghĩa lâu dài. Bài báo đưa ra một số kết quả nghiên cứu sử dụng cốt liệu tái chế từ phế thải xây dựng và thải phẩm công nghiệp là phế phẩm bê tông khí chưng áp (AAC) để chế tạo gạch bê tông rỗng có khả năng thoát nước mưa, ngăn ngừa ngập lụt và góp phần làm giảm hiệu ứng nhiệt đô thị. Kết quả nghiên cứu có lợi ích kép về mặt bảo vệ môi trường. Gạch bê tông rỗng có tổng độ rỗng từ 22,2% đến 41,2% (bao gồm độ rỗng giữa các hạt và độ rỗng bên trong hạt AAC và cốt liệu tái chế), tốc độ thoát nước từ 2,3 mm/s đến 9,1 mm/s, độ hút nước đạt từ 5,1% đến 16,5%, cường độ né...

downloadDownload free PDFView PDFchevron_right

版权声明:本文内容由互联网用户自发贡献,该文观点仅代表作者本人。本站仅提供信息存储空间服务,不拥有所有权,不承担相关法律责任。如发现本站有涉嫌抄袭侵权/违法违规的内容, 请发送邮件至lsinopec@gmail.com举报,一经查实,本站将立刻删除。

上一篇 没有了

下一篇没有了